Đốt sóng cao tần RFA là phương pháp mới trong điều trị các khối u lành tính, ác tính từ u gan, u thận, u xơ tử cung, u tuyến giáp… hay các bệnh lý về mạch máu như suy giãn tĩnh mạch. Phương pháp điều trị bằng sóng cao tần là kỹ thuật xâm lấn tối thiểu không cần phẫu thuật mà vẫn đạt được hiệu quả điều trị cao tương đương với một số phương pháp phẫu thuật, bên cạnh đó còn có ưu điểm vượt trội: không để lại sẹo, đảm bảo tính thẩm mỹ, bảo toàn được chức năng của cơ quan được điều trị.
Đốt sóng cao tần (RFA) là gì?
Đốt sóng cao tần (RFA) hay còn được gọi là cắt bỏ tần số vô tuyến, là một kỹ thuật xâm lấn tối thiểu qua da, sử dụng năng lượng nhiệt để tiêu diệt các khối u, bướu. Đây là phương pháp điều trị y khoa hiện đại được sử dụng phổ biến hiện nay giúp giảm thiểu nguy cơ biến chứng đặc biệt với các ca phẫu thuật mổ mở, đảm bảo tính thẩm mỹ trong điều trị. (1)
Cơ chế hoạt động của phương pháp này là do sự ma sát của các icon trong mô bị tiêu hủy dưới dòng điện xoay chiều có tần số cao, nằm trong khoảng sóng âm thanh. Nhiệt độ dòng điện duy trì trong trung tâm khối u ở mức 60-100 độ C. Dòng điện được truyền vào khối u thông qua một điện cực dạng kim, sóng radio được truyền qua đầu kim và sinh nhiệt. Dòng năng lượng nhiệt này làm tăng ma sát trong mô khối u, làm các tế bào mất nước, dẫn đến hoại tử đông khối u.
Nhằm tăng mức độ chính xác và hiệu quả điều trị, với một số khối u ở vị trí khó, các bác sĩ sẽ kết hợp đốt các khối u dưới siêu âm kết hợp với hình ảnh cắt lớp vi tính (CT) hoặc cộng hưởng từ (MRI) bằng công nghệ US/MRI Fusion hoặc US/CT Fusion để bác sĩ đưa kim chính xác vào trung tâm khối u, bướu. Một ca điều trị sóng cao tần kéo dài khoảng 60 phút, trong đó thời gian đốt khoảng 12-15 phút.
Mục tiêu của đốt sóng cao tần
Mục tiêu điều trị bằng sóng cao tần giúp hạn chế tối thiểu nguy cơ biến chứng phẫu thuật do phương pháp gây mê trong phẫu thuật mở truyền thống. Đầu dò kim của phương pháp điều trị sóng cao tần giúp đi sâu vào trung tâm cấu trúc khối u, nhờ năng lượng dòng điện giúp tiêu diệt các tế bào u từ lành tính tới ác tính. Ngoài ra đối với các bệnh lý giãn tĩnh mạch bên cạnh đốt laser hay bơm keo sinh học, phương pháp sóng cao tần RFA cũng được chỉ định để gây tắc các nhánh tĩnh mạch bệnh lý. (2)
Ứng dụng của đốt sóng cao tần
Điều trị u gan
Kỹ thuật đốt sóng cao tần cũng được chỉ định với bệnh nhân mắc ung thư gan nguyên phát cũng như các trường hợp ung thư thứ phát tại gan. Sau khi bệnh nhân được làm các xét nghiệm chẩn đoán xác định và chẩn đoán giai đoạn của bệnh lý và hội chẩn đa chuyên khoa, với các bệnh nhân phù hợp với chỉ định đốt RFA sẽ được tiến hành can thiệp có chuẩn bị sau đó. (3)
Đốt RFA u gan có một số kỹ thuật để tiếp cận: có thể đốt một kim với u nhỏ hay đốt kim chùm với khối u lớn, về cách tiếp cận u có thể sử dụng định vị trực tiếp vào khối u để đốt và đảm bảo diện đốt bao trùm toàn bộ u và đặt được vùng an toàn cần thiết “ safe margin” hoặc kỹ thuật mới trong những năm gần đây là kỹ thuật đốt không chạm u “No touch” nhằm mục tiêu không phá vỡ vỏ u. Về cơ chế cũng như các kỹ thuật đốt cho tạng khác nhiệt lượng tỏa ra từ đầu đốt sóng có thể tiêu diệt các tế bào ung thư, có thể hạn chế ảnh hưởng đến các tế bào gan lành và mô xung quanh không bị ảnh hưởng.
Đầu kim phát sóng vào chính giữa khối u gan, giúp tiêu diệt tế bào ung thư.
Về chỉ định điều trị ung thư gan bằng phương pháp sóng cao tần thường được thực hiện đối với các khối ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát có kích thước dưới 30mm, có một khối hoặc tối đa dưới 3 khối, gần đây có thể áp dụng mở rộng ra với các khối u gan kích thước lớn hơn, ngoài ra có thể áp dụng cho các nhóm bệnh nhân có khối u di căn tại gan. Đặc biệt ưu tiên cho nhóm các bệnh nhân có chống chỉ định với phẫu thuật, các bệnh nhân có các bệnh lý nền phức tạp, hoặc với các bệnh nhân sợ phẫu thuật. (4)
Thời gian đốt sóng u gan có thể kéo dài phù thuộc vào số lượng cũng như kích thước khối u, thường với những ca u kích thước nhỏ thời gian đốt thường dưới 1 giờ. Trong quá trình đốt u bệnh nhân sẽ được gây tê và có thể dùng các thuốc giảm đau trong quá trình can thiệp để đảm bảo cho bệnh nhân không còn cảm giác đau, và vẫn nói chuyện được với bác sĩ. Thường người bệnh có thể chỉ cần nằm viện 1-3 ngày, và có thể nhanh chóng quay trở lại cuộc sống sinh hoạt bình thường.
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.